15.8.21

TÌNH YÊU NÀO LỚN NHẤT?

(Hình sưu tầm)


 TÌNH YÊU NÀO LỚN NHẤT?

 

CHUYỆN VỀ NGƯỜI TÙ KOLBE

Tôi viết lại những dòng này đúng vào ngày lễ nhớ thánh Maximilian Maria Kolbe, linh mục tử đạo người Ba Lan dưới thời Đức Quốc Xã.

Đối với tôi, thánh Kolbe là một tấm gương rất anh dũng, đã sẵn sàng hy sinh đời sống mình để cứu mạng sống của người khác. Tôi được nghe câu chuyện về ngài vào hơn 20 năm trước, trong thời gian nhà tập, khi cha giám tập hướng dẫn chúng tôi đọc và suy tư về cuộc đời của ngài.

Tôi nhớ rất rõ, ngài là một tu sĩ thuộc dòng Phanxicô, có lòng yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt.  Vào thời Đức Quốc Xã, lãnh đạo Hitle giết hại hàng triệu người Do Thái, Cha thánh Kolbe đã dũng cảm đứng lên chống lại tội ác do ông gây ra và để bảo vệ người Do thái. Chính vì thế ngài bị bắt bỏ tù, sau đó được giải đến trại tập trung Auschwitz, gần thành phố Krakow.

Một câu chuyện rất nổi tiếng về cha thánh Kolbe: trong thời gian ngài ở tù, có 3 người tù vượt ngục; theo quy định của nhà tù, phải có 10 tù nhân khác thí mạng, bắt bỏ đói để răn đe. Trong số 10 tù nhân đó, có một thanh niên kêu lên: “Tôi còn có vợ, tôi còn có con thơ dại, xin tha cho tôi.” Nghe vậy, Cha Kolbe động lòng thương, quyết định sẵn sàng chết thay cho anh này.

Trong thời gian biệt giam, cha Kolbe không hề sợ hãi, hơn nữa ngài dâng lễ hàng ngày và động viên các bạn tù cùng hát thánh ca và cầu nguyện trước cai chết. Thật là kỳ diệu, sau 2 tuần bị bỏ đói, chỉ có Cha Kolbe còn sống sót. Các lính cai tù quyết định kết thúc cuộc đời của ngài bằng một liều thuốc độc.

Các chứng nhân kể lại rằng trong khi chờ đợi mũi tiêm ngài đã dơ hai tay lên, hướng mắt về trời cầu xin cùng Đức Mẹ Maria, xin Chúa đón nhận linh hồn ngài vào chốn thiên đường. Lịch sử cũng đã ghi lại, thi thể của Cha thánh Kolbe đã được hỏa táng vào ngày 15 tháng 8, năm 1941, nhằm ngày Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

 

THÁNH MAXIMILIAN KOLBE

Thánh Maximilian Kolbe được tuyên phong chân phước bởi Đức Giáo hoàng Phaolô VI vào năm 1971. Ngài được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cất nhắc lên bực hiển thánh vào ngày 10 tháng 10 năm 1982. Đặc biệt, trong thánh lễ phong thánh cho ngài, có sự diện của Franciszek Gajowniczek, bạn tù được thánh Kolbe thế mạng. Anh Franciszek, vợ anh và các con của anh lại là những người được sắp xếp để dâng của lễ trong thánh lễ trọng đại đó.

Sau khi tuyên thánh cho Cha Kolbe, Đức Giáo hoàng cũng tuyên bố rằng Thánh Maximilian Kolbe là một thánh tử đạo thực sự. Ngài được chọn làm bổn của các tù nhân, đặc biệt là tù nhân chính trị, người cai nghiện, gia đìnhnhà báo và các phong trào phò sự sống...

 

HÀNH HƯƠNG VỀ QUÊ HƯƠNG THÁNH KOLBE

Tôi thực sự tạ ơn Chúa với lời chuyển cầu của thánh Kolbe, vì năm 2016 trong chuyến hành hương tới Ba Lan để tham dự đại hội giới trẻ Công giáo toàn thế giới (World Youth Day), tôi đã được đến thăm trại tập trung Auschwitz và đứng trước phòng giam nơi ngài bị biệt giam 2 tuần và nơi ngài làm chứng cho Chúa bằng việc đón nhận cái chết trong anh dũng và hy sinh.

Bạn độc quý mến, Cha thánh Kolbe đúng là một tấm dương anh dũng cho chúng ta. Ngài đã sống lời Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người khác, để chứng minh rằng: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,  13)

 

LỜI NGUYỆN CÙNG THÁNH KOLBE

Vậy, nhờ sự chuyển cầu của thánh Maximilian Maria Kolbe, chúng ta cũng cầu xin Chúa ban cho chúng ta có lòng quảng đại hy sinh, trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn biết sẵn hy sinh thời gian, tình yêu thương và tất cả những gì mình có để mang lại hạnh phúc cho người khác.

Người sống bậc gia đình chúng ta biết hy sinh vì lợi ích của gia đình mình. Người sống đời thánh hiến, chúng ta biết hy sinh và phục vụ cho nhu cầu của cộng đoàn. Người làm lãnh đạo quốc gia gia và các tổ chức tôn giáo, xin cho họ luôn biết đặt lợi ích của cộng đồng trước lợi ích cá nhân và đảng phái, hoặc tổ chức của họ. 

Lạy thánh Maximilian Maria Kolbe, xin cầu cho chúng con.

 

Nhân ngày lễ nhớ thánh Maximilian Maria Kolbe

Linh mục Antôn Phạm Trọng Quang, SVD

TÌNH YÊU NÀO DÀNH CHO NGƯỜI TÌNH GIÊSU?

 TÌNH YÊU NÀO DÀNH CHO NGƯỜI TÌNH GIÊSU?

Có người đặt câu hỏi: tại sao nhiều tu sĩ gọi Chúa Giêsu là người tình, là hôn phu của các nữ tu, thậm chí là hôn thê của các nam tu sĩ? Tại sao người tu sĩ diễn tả đi tu là được “kết hôn” với Chúa Giêsu? Nghe lạ quá. Có ý tưởng phê bình, rằng tại sao các tu sĩ đã đi tu rồi còn có những ý tưởng rất đời thường như vậy?

Xét lại đời tu của mình, tôi tự hỏi, có bao giờ mình có ý tưởng như vậy không nhỉ? Thật sự, chưa bao giờ tôi có suy nghĩ đi tu là một hình thức “kết hôn” với Chúa, cũng chưa bao giờ có những suy nghĩ đối tượng để tôi hiến dâng đời mình được hiểu như một người tình. Tuy nhiên, nhớ lại, cách đây 21 năm, khi tôi khấn dòng, một người dì tặng cho tôi chiếc nhẫn bằng vàng, với lời nhắn nhủ: Con hãy đeo chiếc nhẫn này vào ngón tay, để nhắc nhở chính mình, rằng từ đây con đã thuộc trọn vẹn về Chúa. Hãy sống trung thành và giữ trọn những điều con đã khấn hứa với Chúa trước mặt bề trên con. Tôi chỉ biết cảm ơn về những lời nhắn nhủ rất chân thành của dì và nỗ lực sống trọn lời khấn mình đã khấn hứa, còn chiếc nhẫn vàng, tôi đã đem cho mẹ tôi nhờ mẹ cất hộ, vì tôi không có thói quen đeo nhẫn.

Nhiều lần tham dự lễ khấn của quý sơ, tôi được chứng kiến trong nghi thức khấn dòng, vị chủ tế hoặc các đấng bề trên thường trao cho các khấn sinh chiếc nhẫn, biểu trưng cho sự giao ước giữa các nữ tu và chính Chúa Giêsu. Trong nghi thức này, chủ tế cũng nhắc bảo các khấn sinh, chiếc nhẫn mà các chị mang trên tay là dấu chỉ nhắc nhở các nữ tu đã thuộc trọn về Chúa Kitô và Hội Dòng. Trong chiều kích thiêng liêng đây hoàn toàn là một “cuộc hôn nhân” được thiết lập giữa các tu sĩ và vị tân lang Giêsu. Và để hiểu được ý nghĩa thẳm sâu của giao ước này chúng ta cũng nên đi tìm hiểu những căn nguyên của cuộc “hôn nhân” giữa người tình Giêsu và các tu sĩ.

GIÁO HỘI, TÂN NƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU

Trong truyền thống Kinh Thánh, các tác giả thường diễn tả tương quan giữa Chúa Giêsu và Giáo Hội như là một cuộc hôn nhân, trong đó Giáo Hội được miêu tả như là tân nương hay là hiền thê của vị tân lang trung thành là Đức Kitô. (Kh 19, 8). Khi Giáo hội được ví như một hiền thê của Chúa Kitô thì được hiểu với ý nghĩa chung, chỉ có một tân lang và một hiền thê chứ không theo nghĩa riêng biệt. Không một bản văn nào trong Kinh Thánh diễn tả chúng ta là một hiền thê theo ý nghĩa cá thể của Chúa Kitô. Chúa Kitô là tân lang của Giáo hội, của hết cả mọi thành phần trong Giáo hội, chứ không phải của riêng một ai. Vậy từ bao giờ nhiều người lại cho rằng Giêsu là “người tình” của mình?

NGƯỜI TÌNH GIÊSU

Khái niệm về người tình Giêsu có thể xuất phát từ các nhà tu đức và thần học thần bí về tân nương (bridal mysticism) của thời Trung Cổ. Vào thời điểm đó, có một sự thay đổi lớn về lối lý giải Kinh Thánh, từ ý tưởng cho rằng Giáo Hội là tân nương của Chúa Kitô thành ý tưởng rằng mỗi chúng ta là hiền thê của Ngài. Những nhà tu đức và thần học nổi tiếng trong đó có thánh Catharine thành Siena, Têxa thành Avila, Gioan Thánh Giá, đã ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu đức của Giáo Hội. Điểm đặc biệt của các vị thánh này là có đời sống cầu nguyện liên lỷ và kết hiệp mật thiết với Chúa. Các ngài cũng để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng, trở thành những hướng dẫn quan trọng cho các giáo hữu nhất là các tu sĩ về đời sống thiêng liêng và cầu nguyện.

Cụ thể, thánh Têrêxa thành Avila đã từng viết: “Lạy Chúa của con, lạy Đức Lang Quân của con.” Một lời nguyện nói lên sự khiêm tốn nhưng đầy thân mật của chị thánh với Thiên Chúa mà chị hằng tin tưởng và phó thác. Giáo Hội, chính vì thế đã ca ngợi thánh nữ là người đã để Thiên Chúa yêu, trong cuộc đời của mình, chị đã dành một tình yêu say đắm, chị đã đi vào một cuộc hôn nhân huyền nhiệm với Đấng Tình Quân Chí Thánh.

“KẾT HÔN” VỚI GIÊSU

Tiếp đó, trong Giáo Hội, nhiều nữ tu cho rằng việc mình đi tu là “kết hôn” với Chúa Giê-su được phát xuất từ đây. Với tinh thần này, nhiều Hội Dòng, nhất là các Dòng nữ, trong ngày lễ khấn trọn, các sơ khấn sinh không chỉ được nhận chiếc “nhẫn cưới” mà còn được đội lên đầu một vòng hoa trông giống như một cô dâu đã trang điểm rực rỡ trong ngày cưới. Để tìm tài liệu cho bài viết này, khi tôi tìm đọc các trang Công giáo khác nhau trên mạng, tôi đã dễ dàng tìm thấy nhiều bài viết, trong đó các nữ tu ngày nay tin rằng họ đã kết hôn với Chúa Giêsu với một tình yêu và lòng trung thành tuyệt đối. Thật dễ thương, có nữ tu đã diễn tả rằng, Giêsu là một người tình “ga lăng” nhất trên đời để rồi sơ muốn dành trọn tình yêu của mình cho Chúa, chỉ một mình Chúa thôi.

TÌNH YÊU NÀO DÀNH CHO NGƯỜI TÌNH GIÊSU?

Có thể điều chúng ta vừa đề cập nghe rất kỳ lạ đối với nhiều người, tuy nhiên chúng ta nên bàn luận thêm về ý nghĩa của tình yêu mà các tu sĩ dành cho Chúa Giêsu. Tôi xin mượn cách lý giải về ý nghĩa tình yêu theo tư tưởng của người Hy Lạp. Người Hy Lạp cổ hiểu TÌNH YÊU với bốn cấp độ khác nhau, đó là storge (tình cảm tự nhiên), philia (tình bạn và mong muốn thuần khiết), eros (tình yêu có sự ham muốn, tình dục) và agape (tình yêu thánh thiện, tự quên mình).

o   Storge: Được hiểu như là cảm xúc và tình thương giữa cha mẹ, con cái, anh em trong gia đình và họ hàng thân thuộc.

o   Philia: Là một tình yêu có tính đạo đức, được Socrates diễn tả như là “yêu” bao gồm sự trung thành với bạn bè, gia đình và xã hội. Tình yêu này đòi hỏi phải có đức hạnh, sự bình đẳng và tính tự nguyện.

o   Eros: Đây là tình yêu có tính chất nồng nàn và lãng mạn, đôi lúc với sự ham muốn nhục dục. Đối với triết gia Plato, tình yêu này giúp linh hồn thấy được cái đẹp của siêu nhiên, của siêu việt.

o   Agape: Đây là một thứ tình yêu mang tính thánh thiêng và thuần khiết nhất, sâu sắc nhất, là một tình yêu vượt trội và vô điều kiện. Nó sâu sắc hơn tất cả những tình yêu khác vì nó có tính cách chữa lành, viên mãn và hoàn thiện dành cho người mình yêu.

Như vậy, việc các tu sĩ cho rằng mình được “kết hôn” với người tình Giêsu được hiểu như là tình yêu Agape, một tình yêu có tính siêu việt và linh thiêng không hề mang tính tư lợi hay vì dục vọng, cũng không phải một thứ tình thương giữa người thân hay bạn bè. Họ yêu Chúa bằng một thứ tình yêu cao siêu, khiến họ tự nguyện đi đến tận cùng trái đất, bằng tất cả những gì họ có, để phục vụ người nghèo và đồng hành với những người chịu đau khổ.

Kinh thánh sử dụng thuật ngữ này để mô tả tình yêu thương mãnh liệt của Thiên Chúa với loài người, một tình yêu vượt qua mọi sự hiểu biết và vượt qua mọi không gian và thời gian: “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Dt 13, 8); “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 36, 1).  Kinh Thánh dùng ý tưởng của tình yêu Agape để diễn tả tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại, khiến các tu sĩ phải bỏ hết tất cả để có được tình yêu đó. Như lời miêu tả của Thánh Phaolô: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Phi 3, 8-9).

Thật vậy, đây là một tình yêu đang nối kết người tu sĩ với Chúa, tình yêu này dẫn tới sự viên mãn và trọn vẹn như một khúc tình ca mà chúng ta thường hát: “Lạy Đấng Tình Quân con tôn thờ. Con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con. Mũi tên nào say đắm bắn trúng con tim hồng. Để từ nay con sống là sống cho, cho tình yêu. Và dầu cho con chết là chết cho, cho tình yêu (Linh mục nhạc sĩ Ân Đức).

Ước chi mỗi người chúng ta, nhất là các tu sĩ, luôn biết kết hợp với Chúa trong mọi giây phút của đời thánh hiến, để họ luôn trở thành “tân nương” đích thực của Chúa Giêsu. Xin Chúa luôn đốt nóng ngọn lửa yêu thương, để trái tim của những người đã được thánh hiến luôn thuộc về Chúa, nhờ đó họ sẵn sàng dấn thân, can đảm ra đi loan báo Tin Mừng và phục vụ tha nhân với một tình yêu rất thiêng liêng, thuần khiết và vô điều kiện mà Đấng Tình Quân đã dành cho họ.

Washington DC, ngày 14/7/2021, nhân kỷ niệm 21 năm ngày khấn dòng.

Linh mục Antôn Phạm Trọng Quang, SVD

Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cursillo

  Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cu rsillo   1.       Dẫn nhập Buổi chiều ngày cuối cùng khóa “khóa ba ngà...