19.12.21

 XUẤT KHẨU ƠN GỌI, PHẢI CHĂNG CÓ CÁCH NÓI TỐT HƠN?


Một bạn trẻ đọc đâu đó một bài viết, tỏ ra không hài lòng về cách tác giả dùng từ “XUẤT KHẨU ƠN GỌI” để chỉ việc Giáo Hội Việt Nam trong những thập kỷ gần đây chia sẻ nhiều ơn gọi cho các Giáo hội nước ngoài. Bạn trẻ này đã hỏi tôi có suy nghĩ như thế nào về lối diễn đạt này. Tôi không biết ý tưởng và mục đích của tác giả bài viết đó như thế nào. Tôi cũng không đi tìm đọc bài viết đó, vì cũng đã nhiều lần đọc thấy có người dùng ngôn từ này, dĩ nhiên tôi đoán, họ không có ý xấu mà chỉ thiếu sự tinh tế.

Tất nhiên, theo cảm nhận của nhiều người, việc dùng từ “xuất khẩu ơn gọi” để nói về việc các tu sĩ Việt Nam ra nước ngoài truyền giáo quả thật không thỏa đáng, vì ơn gọi không phải là một mặt hàng để bán buôn, nhưng là một món quà có giá trị cao quý, chúng ta thường gọi là “Ơn Thiên Triệu,” tức là ơn được Chúa kêu gọi. Vì thế, bằng thái độ trân trọng, chúng ta gọi họ là các nhà truyền giáo. Với nhiều hoàn cảnh và thời khắc khác nhau, họ đã tới hoặc được gửi tới nhiều nước khác nhau, không nhằm mục đích nào khác, đó là để truyền giáo.    

1.      Câu chuyện về các nhà truyền giáo Việt Nam

Sau biến cố 75, hàng triệu người Việt rời bỏ quê hương để đến với các nước khác nhằm tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong số họ có hàng nghìn người là linh mục và tu sĩ. Khi đến những nơi ở mới, có người đã từ bỏ đời tu nhưng cũng có nhiều người kiên trì giữ vững đời sống tu trì của mình. Vì thế, tại nhiều nơi trên thế giới, cách riêng tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Đức, Úc... đang có hàng nghìn linh mục và tu sĩ mục vụ trong các giáo xứ và các cơ sở tôn giáo của Giáo Hội.

Trong khi đó, nhờ truyền thống đạo đức của Giáo hội quê nhà, nhờ những gương hy sinh của các bậc tiền nhân, Giáo hội Việt Nam chúng ta vẫn tiếp tục nở sinh nhiều ơn gọi dâng hiến trong các Giáo phận và trong nhiều Hội dòng. Những năm gần đây, khi các Giáo hội Phương Tây thiếu ơn gọi trầm trọng, trong khi số lượng ơn gọi trong nước vẫn còn rất phong phú, vì thế nhiều nhà truyền giáo Việt Nam lại được gửi đi tuyền giáo khắp muôn phương.

Như vậy, về vấn đề gọi tên các nhà truyền giáo Việt Nam, dưới góc độ cá nhân, tôi tin tưởng rằng họ là những ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến với chính dân Việt của mình và họ cũng là ngôn sứ được sai đi để rao giảng Tin Mừng cho cánh đồng truyền giáo đang cần nhiều thợ gặt.

2.      Ngôn sứ được sai đến với dân Việt của mình

Gần đây, khi viết về chủ đề mục vụ di dân và lao động Việt Nam của Giáo hội tại Đài Loan tôi nhớ đến câu chuyện của người Israel khi họ phải lưu đày ở Babilon, họ phải chịu nhiều cảnh tù đày và ngược đãi, khi họ kêu cầu lên Thiên Chúa thì Chúa đã gửi các tiên tri đến an ủi, đồng hành và khuyên bảo họ tiếp tục giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa. Ngày nay, khi người Việt ồ ạt qua Đài Loan lao động hay một số người kết hôn với người Đài Loan, thì Thiên Chúa đã gửi đến cho họ nhiều vị “tiên tri” để đồng hành và đấu tranh cho quyền lợi của họ, đó là các linh mục và tu sĩ.

Câu chuyện về các vị ngôn sứ người Việt được Sai đến với dân Chúa tại Đài Loan thật là đặc biệt, là câu chuyện của Hội tu sĩ Việt Nam tại Đài Loan, được thành lập cách đây 30 năm. Nhìn lại lịch sử của ba thiệp kỷ qua, ban đầu chỉ có khoảng 20 tu sinh người Việt đến Hoa Kỳ, Úc và Canada để truyền giáo cho người Đài Loan. Sau đó, các nhà dòng cũng có nhiều chương trình tuyển mộ ơn gọi từ Việt Nam, và cho đến nay, ước tính số linh mục người Việt tại Đài Loan đã lên tới 60 vị và gần 200 nữ tu.

Các linh mục và tu sĩ Việt Nam có mặt trong các Giáo phận, họ được mời gọi làm việc trong nhiều văn phòng trợ giúp lao động hay trong các ban mục vụ di dân của Giáo phận. Vì thế khi nơi nào có lao động và di dân người Việt cần giúp đỡ thì hàng trăm linh mục và tu sĩ người Việt Nam sẵn sàng trợ giúp họ. Nhờ có sự trợ giúp của các linh mục và tu sĩ, đời sống của người lao động và di dân Việt Nam ở đây được nhiều quan tâm và có nhiều cải thiện.

Quả thật không chỉ có ở Đài Loan, nhưng còn nhiều nước khác, nơi nào có người Việt, Thiên Chúa đã gửi các vị ngôn sứ đến nơi đó để đồng hành, hướng dẫn và giúp đỡ con cái của mình. Ngoài việc đồng hành, chia sẻ và hướng dẫn đời sống đức tin và tinh thần cho con dân Việt gia xứ, các nhà truyền giáo của chúng ta cũng hòa nhập rất nhanh vào đời sống của Giáo hội địa phương, vì thế họ được mời gọi chia sẻ sứ vụ truyền giáo cho những người bản địa.

3.      Ngôn sứ được sai đi tìm kiếm chiên lạc

Người Việt Công giáo chúng ta rất có truyền thống đạo đức, bằng việc siêng năng đọc kinh, tổ chức nhiều nghi thức và sinh hoạt cộng đồng như dâng hoa, rước kiệu, lễ hội... tạo nên những cộng đồng rất mạnh mẽ tại các nước chúng ta đang sống. Ngoài ra cộng đồng Công giáo chúng ta cũng rất coi trọng việc bảo tồn văn hóa Việt, luân thường đạo lý, tinh thần bao dung, lòng quảng đại đóng góp xây dựng các Giáo hội địa phương. Nhờ đó chúng ta đã để lại nhiều ấn tượng rất tốt, nhất là sự tin tưởng trong hàng giáo phẩm và giáo dân người bản địa.

Chính vì vậy, các Giám mục địa phương cũng đã tin tưởng các nhà truyền giáo của chúng ta. Các ngài đã giao cho các nhà truyền giáo nhiều trọng trách trong Giáo hội. Cụ thể, hiện nay chúng ta đã có nhiều Giám mục là người Việt phục vụ tại nhiều quốc gia khác nhau, như Đức cha Thomas Nguyễn Thái Thành tại Hoa Kỳ, Đức cha Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu tại Canada, Đức cha Vincent Nguyễn Văn Long tại Úc và Đức Tổng Giám mục Peter Nguyễn Văn Tốt tại Sri Lanka.

Như chúng ta đã đề cập trên đây, do số lượng ơn gọi tại Châu Âu, Hoa Kỳ và nhiều nước khác đang xuống dốc rất nghiêm trọng, nên nhiều nhà dòng phải đóng của tu viện, nhiều nhà thờ phải đóng cửa. Vì thế, khi Giáo hội Việt Nam chúng ta đang có ơn gọi dồi dào thì chúng ta phải chia sẻ ơn gọi cho các nước khác.

Dĩ nhiên, chúng ta không nhấn mạnh việc đóng góp vật chất như các Giáo hội Phương Tây trước đây đã từng thực hiện cho các vùng truyền giáo để xây dựng nhà thờ, trường học, bệnh viện hay các cơ sở bác ái khác. Những điều mà các nhà truyền giáo của chúng ta có thể đóng góp, đó là công việc mục vụ, thể chia sẻ Tin Mừng bằng chứng tá sống động qua các mới liên đới huynh đệ, tình thương yêu và chăm sóc người già, người bệnh và đồng hành với những ai đang mất niềm tin vào Chúa. 

Tháng 10 năm nay, trong Chúa Nhật Khánh Nhật Truyền Giáo, Đức Hồng Y Tagle, người đứng đầu Bộ Truyền Giáo Tin Mừng Cho Các Dân Tộc của Vatican, đã khiến mọi người ngạc nhiên, khi ngài nói: “Châu Âu là một lãnh thổ truyền giáo, châu Âu hiện nay cần các nhà truyền giáo đến để loan báo Tin Mừng” (VietCatholic News, 2021). Vậy đây là nhu cầu rất cấp thiết, các nhà truyền giáo Việt Nam chúng ta có thể thực hiện được.

Thật đáng kinh ngạc, nếu không muốn nói thật đáng buồn, vì xưa nay chúng ta biết Châu Âu là cái nôi của Đức tin Ki-tô Giáo. Từ các nước Châu Âu, các nhà truyền giáo đã ra đi mang Tin Mừng loan báo cho muôn nơi, trong đó có nước Việt chúng ta. Thế nhưng, Châu Âu và ngay cả Hoa Kỳ, Canada, Úc..., là những nước Ki-tô Giáo, họ đã từng xây dựng đời sống văn hóa, văn minh và luật pháp dựa trên nền tảng Ki-tô Giáo, nay đã trở thành nơi chối bỏ đức tin, là môi trường sinh ra các phong trào chống lại Đức Ki-tô, dưới danh nghĩa tự do cá nhân, bình đẳng giới và tính đa nguyên.

4.      Lời Kết

Ước mong các nhà truyền giáo của chúng ta, những người được Thiên Chúa mời gọi đến để đồng hành và phục vụ những anh chị em đồng hương, đồng thời phục vụ những Giáo hội đang vắng bóng các vị chủ chăn, luôn biết trở nên những nhân chứng sống động cho mọi anh chị em. Nguyện xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn các ngài, để qua đời sống chứng nhân và loan báo Tin Mừng của mình họ giúp củng cố đời sống của anh chị em, đồng thời dẫn đưa nhiều con chiên lạc trở về cùng một đoàn chiên⸻Giáo hội.

 Linh mục Antôn Phạm Trọng Quang, SVD

Bài đăng trên VietCatholic

https://vietcatholic.net/News/Html/273023.htm


11.12.21

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ MỤC VỤ DI DÂN CỦA GIÁO HỘI ĐÀI LOAN TỪ NHỮNG NĂM 1980 ĐẾN NAY

LM. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD



 

       I.     I.VÀI NÉT VỀ ĐÀI LOAN VÀ SỰ DU NHẬP CỦA LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Đài Loan, một hòn đảo nhỏ có diện tích gần 36,000 m2, với tổng dân số gần 24 triệu, và chỉ hơn 200,000 giáo dân, chiếm 0,8% dân số. Đài Loan còn có tên gọi FORMOSA hay HÒN ĐẢO NGỌC do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đặt cho.

Chính phủ Đài Loan bắt đầu nới lỏng việc chính sách xuất ngoại và tiếp nhận người nước ngoài vào Đài Loan vào đầu những năm 1980. Tháng 10 năm 1989, Bộ Lao Động Đài Loan đã ký quyết định cho phép tuyển dụng lao động nước ngoài như một phần trong nỗ lực giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động. Năm 1994, lần đầu tiên chính phủ Đài Loan công bố một “Chính Sách Hướng Nam,” nhắm đến các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Phillipines, Inđônisia và Việt Nam.

Về phía Việt Nam, từ những năm 1990 bắt đầu chương trình đổi mới chính sách ngoại giao, tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam và tạo điều kiện cho công nhân ra nước ngoài làm việc.

Đầu những năm 1990 hai nước thiết lập Văn Phòng Kinh Tế và Văn Hóa để tiện cho việc giao dịch và làm thủ tục xin visa. Sau đó Việt Nam và Đài Loan đã bắt đầu kế hoạch hợp tác song phương. Phía Đài Loan cần nguồn lao động trẻ làm việc trong các xí nghiệp và nhà máy cơ khí, hộ lý, lao động giúp việc nhà, và chăm sóc người già.

Theo thống kê của Bộ Lao Động Đài Loan, năm 1999, chỉ có 131 lao động Việt Nam đến Đài Loan, một năm sau đó có 7,746 lao động. Tuy nhiên, con số lao động đến từ Việt Nam tăng lên rất nhanh những năm sau đó, cụ thể năm 2020 đã có 224,713 người. Năm nay, mặc dầu gặp địa dịch Covid, nhưng vẫn còn 221,000 lao động làm việc tại đây.

II.                  KHÓ KHĂN VÀ THÁCH ĐỐ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI ĐẾN ĐÀI LOAN?

Lao động đến với hòn đảo ngọc không gì khác ngoài tham vọng thay đổi cuộc, nhưng để đạt được giấc mơ này thật chẳng dễ dàng chút nào, thậm chí có người còn vỡ mộng.

Họ phải làm việc trong hoàn cảnh được gọi là 3D và 1L, đó là difficult (gian khổ), dangerous (nguy hiểm), dirty (dơ bẩn) và low paid (thu nhập thấp). Khi đến làm việc tại Đài Loan, các lao động phải ký hợp đồng thông qua công ty môi giới, họ phải trả một số tiền rất lớn cho cả môi giới phía Việt Nam và phía Đài Loan.

Nhiều lao động do hạn chế hiểu biết về luật, về văn hóa và tập quán của nước sở tại, do môi giới không cung cấp đầy đủ thông tin, không được đào tạo trước khi sang Đài Loan cho nên đã gặp nhiều trở ngại trong công việc. Hơn nữa kỹ năng và hiểu biết của lao động không đáp ứng yêu cầu của chủ thuê, họ không quen với mật độ lao động và đòi hỏi nghiêm khắc, nên đã bị khinh dể, đánh đập, hoặc bị trả về nước.

Người lao động chịu nhiều áp lực, lớn nhất là vấn đề tiền lương. Mặc dầu chính phủ Đài Loan quy định, mỗi tháng lao động được nhận từ 17,000 đến 22,000 Đài tệ, tuy nhiên, đa số họ lại nhận thấp hơn rất nhiều so với mức lương quy định.

Nếu nhìn vào con số thu nhập, thì người lao động phải mất ít nhất trên dưới hai năm để kiếm được đủ số tiền trả món nợ ở quê nhà. Rồi muốn kiếm được thêm tiền lời họ chỉ còn vỏn vẹn một năm làm việc, với thu nhập khoảng 120-150 triệu đồng. Dĩ nhiên công việc phải ổn, không vi phạm nội quy, không đau ốm, không nghỉ phép... để không bị khẩu trừ.

 III.          III. ĐƯỜNG HƯỚNG MỤC VỤ DI DÂN CỦA GIÁO HỘI ĐÀI LOAN.

a)      Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Đài Loan (HĐGMĐL)

Vào năm 1989, HĐGMĐL công bố Thư Mục Vụ Về Vấn Đề Lao Động Nước Ngoài.” Bức thư này dựa tuyên bố của Văn Phòng Tòa Thánh nhân ngày quốc tế di dân năm1988, với ý bày tỏ: tất cả mọi người đều có quyền tự do được di chuyển đến một nơi an toàn và được quyền làm việc như bao nhiêu cá nhân khác.”

Cụ thể Thư mục vụ này dành những lời nhắn nhủ đến các thành phần như sau, xin trích một số điểm tron bức thư:

·         Dành cho các nhà lập pháp và lãnh đạo đất nước: “Họi người cần phải được quan tâm, được lắng nghe và phải được giải quyết những khúc mắc bằng pháp luật.”

·         Dành cho các chủ thuê: Họ phải biết rằng tầm quan trọng của những người nước ngoài đã đóng góp rất nhiêu về trí tuệ, năng lực, kỹ thuật cũng như là phương tiện làm việc cho các nhà máy. Thiếu sự quan tâm về nhu cầu làm việc, về quyền lợi của công nhân thì sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất.

·         Dành cho chính các lao động: “Khi anh em bị áp lực về ngôn ngữ, khác biệt văn hóatôn giáo, thì phía sau anh chị em còn có gia đình, có quê hương và có Giáo hội đang ủng hộ và bảo vệ anh chị em. Nhất là khi anh chị em rời xa gia đình, xa quê hương, để đến với đến Đài Loan tìm công việc, anh chị em cần phải kiên nhẫn và siêng năng làm việc”  

·         Dành cho các Giáo xứ: “chúng ta cũng mời gọi người lao động nước ngoài đến tham dự, đón tiếp họ như người nhà để họ cũng cảm thấy được tôn trọng và thông cảm. Qua những cuộc gặp gỡ này chúng ta cũng giới thiệu đức tin Công giáo cho họ. Nếu có ai không may bị tay nạn lao động, phải điều trị trong bệnh viện, thì cha xứ và Ban Mục Vụ Di Dân cũng nên đi thăm và động viên họ”.

 

b)     Thành lập Văn Phòng Trợ Giúp Di Dân công bố Chúa Nhật Di Dân (National Migrant Sunday)

Để tiến thêm một bước, cùng năm 1989 HĐGMĐL đã công bố thành lập Văn Phòng Quan Tâm Lao Động Nhập Cư tại Đài Bắc (Migrant Workers’ Concern Desk in Taipei).

Tiếp đó, vào năm 1997 HĐGMĐL cũng công bố thành lập ngày Chúa Nhật Dành Cho Người Di Dân.   

Ít năm sau đó, nhằm tiếp tục thúc đẩy công việc mục vụ di dân, HĐGMĐL vào năm 1998, viết lá thư mục vụ thứ hai gửi tới chính phủ và người dân Đài Loan, có tựa đề “Tinh Thần Liên Đới, Mục Vụ cho Lao Động Nước Ngoài” (Solidarity, A Pastoral Service For Foreign Workers).

Bức thư có đoạn viết:

Lao động nước ngoài đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Họ làm việc cả ngày lẫn đêm. Họ góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh của Đài Loan trên thị trường kinh tế thế giới. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương và người thân yêu của mình, họ đã phải điều chỉnh thái độ và phong cách sống của mình để phù hợp với văn hóa, phong tục và chương trình làm việc của người địa phương.

Mỗi Giáo phận cần thành lập một Ban mục vụ cho người lao động nước ngoài, các thành viên làm việc chung với nhau để tìm cách cải thiện công việc phục vụ cho họ.

c)      Các Giáo phận thành lập Ban Mục Vụ Di Dân

Đài Loan có bảy Giáo phận. Trong các Giáo phận có sự hiện diện của nhiều Hội dòng. Vì thế, khi HĐGMĐL kêu gọi mục vụ cho di dân, các Giáo phận và các Hội dòng đã hưởng ứng hết sức tích cực.

Nổi bật nhất là Giáo phận Tân Trúc, họ thành lập Trung Tâm Hy Vọng và Trung Tâm Phục Vụ Di Dân. Đức Giám mục bổ nhiệm các linh mục, nữ tu, và giáo dân là nhân viên và chuyên viên làm việc full time.

Giáo phận đưa ra một bản tuyên bố chung:

Sống theo khuôn mẫu của Chúa Giê-su, các trung tâm nỗ lực thúc đẩy sự công bằng, chính nghĩa điều kiện làm việc an toàn cho người lao động địa phương và lao động nước ngoài. Hy vọng sự công bằng và chính nghĩa này dần dần trở thành tiêu chuẩn cho Luật Lao Động của đất nước. Trung tâm sẽ cung cấp một nhóm nhân viên chuyên hỗ trợ và đồng hành với người di dân và gia đình của họ. Trung tâm cũng sẽ tạo điều kiện để họ có nơi thực hiện nhu cầu văn hóa và tín ngưỡng của mình.

Tiếp đó, Trung tâm kết hợp với nhiều giáo xứ trong Giáo phận sắp xếp nhiều thánh lễ bằng tiếng Anh, tiếng Inđônisia và tiếng Việt. Trung tâm mở các lớp tiếng Hoa và các lớp học hỏi pháp luật tất cả đều miễn phí. Trung tâm cũng nhận bào chữa miễn phí cho các lao động bị xâm hại tình dục, bị đánh đập vân vân.

d)     Văn Phòng Trợ Giúp Công Nhân, Di Dân Việt Nam

Do số lượng người di dân từ Việt Nam đến ngày càng cao, kể cả công nhân và các cô dâu lấy chồng Đài, Hội Dòng Truyền giáo thánh Columban, thành lập Văn Phòng Trợ Giúp Công Nhân và Di Dân Việt Nam vào năm 2004.

Văn phòng được thành lập bởi linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hùng, với đội ngũ hơn 10 nhân viên, trong đó 2 linh mục, 4 nhân viên người Việt Nam và nhiều người Đài Loan.

Văn phòng đã nhận được nhiều sự quan tâm và giúp đỡ của nhiều cá nhân và cộng đồng ở Đài Loan cũng như nhiều nơi trên thế giới, nhất là cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, Úc Châu, Canada và nhiều nước Châu Âu.

Văn Phòng thực hiện nhiều mục tiêu cấp thiết, bao gồm:

(1)   đấu tranh để “chấm dứt tệ nạn buôn người từ Việt Nam;

(2)   cung cấp kịp thời các phương thức cứu trợ, giúp đỡ các nạn nhân bị hành hạ;

(3)   cố vấn pháp luật và phái luật sư can thiệp bào chữa tại toà;

(4)   trao dồi kiến thức về luật pháp để giúp người lao động ý thức quyền làm chủ, đấu tranh cho nhân quyền, nhân phẩm của chính mình.”

 

 IV.            IV. ĐÁNH GIÁ VÀ TÁI KHẲNG ĐỊNH (thay lời kết)

Nỗ lực của Giáo hội đã giúp cho nhân phẩm của người lao động được tôn trọng, không chỉ dành cho người Việt mà cho người nhập cư từ nhiều quốc gia.

Tiếng nói của Giáo hội đã có tác động rất lớn đến việc thay đổi chính sách lao động của chính phủ Đài Loan. Ví dụ, ngày 21 tháng 10 năm 2016, Quốc Hội Đài Loan chính thức thông qua  điều 52 Luật Giao Dịch Việc Làm, hủy bỏ việc lao động nước ngoài phải xuất cảnh 1 ngày sau 3 năm làm việc. Môi giới lợi dụng thủ đoạn này để đuổi lao động về nước hoặc thu thêm nhiều khoản tiền khác.

Đây là một thành công lớn cho các nhà đấu tranh vì quyền lợi của công nhân. Ngày 21/10/2016 thật sự là một ngày vui, và một ngày vô cùng ý nghĩa với hàng trăm ngàn người lao động.

Còn một điều luật nữa mà cho tới hôm nay Giáo hội Công giáo cùng với các tổ chức phi chính phủ đang còn phải đấu tranh, đó là yêu cầu “hủy bỏ chế độ môi giới”.

Khi nói về chủ đề mục vị di dân và lao động Việt Nam tôi nhớ đến câu chuyện của người Israel khi họ phải lưu đầy ở Babilon, khi họ chịu cảnh tù đày và bị ngược đãi, khi họ kêu cầu lên Chúa thì Thiên Chúa đã gửi các tiên tri đến an ủi, đồng hành và khuyên bảo họ tiếp tục giữ vững niềm tin vào Ngài.

Ngày nay, khi người Việt ồ ạt qua các nước lao động, Thiên Chúa đã gửi đến cho họ nhiều vị “tiên tri” để đồng hành và đấu tranh cho quyền lợi của họ, đó là các linh mục và tu sĩ. Cụ thể ở Đài Loan, năm ngoái, Hội tu sĩ Việt Nam tại nước này đã kỷ niệm 30 năm thành lập hội. Ban đầu chỉ có khoảng 20 tu sĩ người Việt đến Hoa Kỳ, Úc và Canada để truyền giáo. Nhưng cho đến nay, ước tính có khoảng hơn 60 linh mục và khoảng 200 tu sĩ người Việt mục vụ tại đây.

Khi lao động và di dân người Việt cần sự giúp đỡ thì không chỉ có Cha Phêrô Nguyễn Văn Hùng và cha Phêrô Nguyễn Hùng Cường nhưng hết thảy chúng tôi, hằng trăm linh mục và tu sĩ người Việt đã sẵn sàng đưa tay ra cứu giúp họ.  

Thật vậy, khi Giáo hội có hướng đi rõ ràng, khi các Giáo phận và Hội dòng có văn phòng và nhân sự mục vụ cho di dân, nhất là trong đó có các linh mục và tu sĩ người Việt, thì đời sống của người lao động và di dân Việt Nam được cải thiện.

Tôi tin rằng, không chỉ có ở Đài Loan, nhưng còn nhiều nơi khác, nơi nào có người Việt, Thiên Chúa đã gửi các vị “tiên tri” đến nơi đó để đồng hành, hướng dẫn và giúp đỡ con cái của mình. Tạ ơn Thiên Chúa.

Vậy, để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta, tiếp tục phát huy sứ vụ ngôn sứ của mình, để chấm dứt hiện tượng “bắt con bỏ chợ”, mặc kệ người lao động than khóc nơi đất khách quê người.

Chúng ta hãy hăng say lên đường để đi tìm các “chiên lạc” và đưa họ về cùng một đoàn chiên: quê hương, gia đình và Giáo hội.




 

24.10.21

CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ KHÔNG NÓI  

 

Hàng năm cứ vào tháng 10 chúng ta biết đây là tháng Mân Côi, Giáo hội kêu gọi chúng ta siêng năng lần hạt để ca tụng Đức Trinh nữ Maria và xin Mẹ chuyển cầu cùng Thiên Chúa cho chúng ta. Tuy nhiên, tháng 10 cũng được gọi là tháng truyền giáo, là tháng Giáo hội dành đặc biệt để mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho việc truyền giáo cũng như thực hiện sứ vụ truyền rao Tin Mừng cho mọi người mà họ đã lãnh nhận khi chịu Bí tích Rửa tội.

Chính vì thế, vào Chúa Nhật áp chót của tháng này, Giáo hội cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo. Năm nay Chúa Nhật Truyền Giáo đúng vào ngày 24 tháng 10, khi mừng ngày này hãy cùng nhau suy gẫm chủ đề được Đức Thánh Cha viết trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Truyền giáo: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4, 20).

Truyền giáo là một sứ mệnh cần thiết của Giáo hội. Hay nói cách khác, căn tính của Giáo hội là truyền giáo, trách nhiệm của các tín hữu là giới thiệu Chúa cho mọi người, làm cho họ trở nên con cái của Chúa và trở thành những thành viên trong gia đình Giáo hội. Lịch sử loan báo Tin Mừng bắt đầu với mong muốn thiết tha của Chúa, Đấng kêu gọi và muốn đối thoại thân thiện với mỗi người. Thiên Chúa luôn chủ động chia sẻ tình yêu của Ngài với hết thảy mọi người.

Khi được mời gọi theo Chúa, các Tông đồ là những người đầu tiên cho chúng ta biết điều này. H kể cho chúng ta biết kinh nghiệm về việc họ được gặp Chúa và theo chân Ngài. Mọi chi tiết của cuộc gặp họ đều nhớ rất rõ. Họ nhớ ngay cả ngày và giờ lúc sự gặp gỡ được bắt đầu: “Lúc đó vào giờ thứ mười” (Ga 1, 39), tức là khoảng bốn giờ chiều. Lần đầu tiên được tiếp xúc với Chúa Giê-su, là lúc đánh dấu một điểm mốc rất quan trọng trong cuộc đời của họ. Và rồi họ đã ở lại, đi theo Người và được huấn luyện thành những môn đệ nhiệt thành để lãnh trách vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ.

Sau khi lãnh nhận trọng trách từ Thầy của mình họ đã bắt đầu đi khắp mọi miền thiên hạ để loan báo về Đức Ki-tô, về Con Người họ đã nhận biết, “để ai tin vào Người thì sẽ được ơn cứu sống” (Ga 3, 15). Dĩ nhiên, mọi thứ không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng ngược lại các môn đệ đã khởi đầu công việc truyền giáo với nhiều gian nan và khốn khó.

Sau những cố gắng của các ngài, các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi đã được thiết lập và các tín hữu bắt đầu đời sống đức tin của mình. Điều đáng chú ý là mặc dầu họ phải sống trong bầu khí thù địch và bị ghét bỏ bởi những người xung quanh, nhưng họ vẫn luôn kiên cường giữ vững đức tin và nỗ lực làm cho các cộng đoàn được lớn lên về tinh thần và phạm vi. Cụ thể, trong thông điệp của Đức Thánh Cha về Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay, có đoạn ngài viết:

Những kinh nghiệm bị gạt ra ngoài lề và tù đày đan xen với những cuộc đấu tranh nội tâm và bên ngoài dường như mâu thuẫn và thậm chí phủ nhận những gì họ đã thấy và đã nghe. Tuy nhiên, thay vì là một khó khăn hay trở ngại khiến họ lùi bước hoặc co cụm, những trải nghiệm đó thôi thúc họ biến những vấn đề, xung đột và khó khăn thành cơ hội để thực hiện sứ mạng.

Vậy, bạn thân mến, là những thành viên trong gia đình Giáo hội, chúng ta đặc biệt được mời gọi thánh hóa môi trường mình đang sống, nỗ lực làm cho môi trường này trở thành môi trường Ki-tô giáo. Nói rõ hơn, chúng ta được giao cho sứ vụ kể về kinh nghiệm chúng ta được gặp và tin vào Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta, để họ cũng được nghe và tin nhận Ngài, nhằm để hết thảy mọi người chúng ta được hưởng sự sống đời đời.   

Quả vậy, “những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Đây là lập trường của các Tông đồ sau khi được nhận biết Đức Ki-tô, họ nhất quyết phải thuật lại cho những người chưa nhận biết Ngài. Lập trường này cũng đã trở thành thái độ sống của mọi Ki-tô hữu chúng ta. Vì thế, để sống tinh thần của Chúa nhật Truyền Giáo năm nay, ngoài việc cầu nguyện và đóng góp vật chất giúp việc truyền giáo của Giáo hội, chúng ta cũng tìm cách nói cho người khác biết về Chúa, về Đấng mà chúng ta tin thờ. Không đâu xa, chúng ta tiếp tục giới thiệu Chúa cho người thân trong gia đình và cho bạn bạn bè chúng ta.

Đây là một việc làm hết sức khó khăn, nhiều lúc chúng ta cảm thấy như là “impossible mission, là điều không bao giờ thực hiện được. Nhưng hãy nhận biết rằng, những hạn chế và trở ngại nàycơ hội đặc biệt để chúng ta cầu xin Thần Khí của Chúa hướng dẫn chúng ta. Chúng ta cũng xin Ngài luôn chúc lành và thánh hóa cho những người chống đối chúng ta.

Không việc gì mà Thiên Chúa không làm được, cũng như không thể để cho một ai trong gia đình chúng ta, trong người thân và bạn bè chúng ta bị loại khỏi vòng tay yêu thương của Chúa. Vì thế chúng ta cần nỗ lực hơn và luôn kiên nhẫn trong sứ vụ truyền giáo của mình.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho quý vị và xin kính chúc mọi người có một Ngày Thế giới Truyền giáo đầy ý nghĩa.

Linh mục Antôn Phạm Trọng Quang, SVD



(Hình sưu tập)

Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cursillo

  Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cu rsillo   1.       Dẫn nhập Buổi chiều ngày cuối cùng khóa “khóa ba ngà...