11.12.21

ĐÁNH GIÁ THÀNH QUẢ MỤC VỤ DI DÂN CỦA GIÁO HỘI ĐÀI LOAN TỪ NHỮNG NĂM 1980 ĐẾN NAY

LM. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD



 

       I.     I.VÀI NÉT VỀ ĐÀI LOAN VÀ SỰ DU NHẬP CỦA LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Đài Loan, một hòn đảo nhỏ có diện tích gần 36,000 m2, với tổng dân số gần 24 triệu, và chỉ hơn 200,000 giáo dân, chiếm 0,8% dân số. Đài Loan còn có tên gọi FORMOSA hay HÒN ĐẢO NGỌC do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đặt cho.

Chính phủ Đài Loan bắt đầu nới lỏng việc chính sách xuất ngoại và tiếp nhận người nước ngoài vào Đài Loan vào đầu những năm 1980. Tháng 10 năm 1989, Bộ Lao Động Đài Loan đã ký quyết định cho phép tuyển dụng lao động nước ngoài như một phần trong nỗ lực giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động. Năm 1994, lần đầu tiên chính phủ Đài Loan công bố một “Chính Sách Hướng Nam,” nhắm đến các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Phillipines, Inđônisia và Việt Nam.

Về phía Việt Nam, từ những năm 1990 bắt đầu chương trình đổi mới chính sách ngoại giao, tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam và tạo điều kiện cho công nhân ra nước ngoài làm việc.

Đầu những năm 1990 hai nước thiết lập Văn Phòng Kinh Tế và Văn Hóa để tiện cho việc giao dịch và làm thủ tục xin visa. Sau đó Việt Nam và Đài Loan đã bắt đầu kế hoạch hợp tác song phương. Phía Đài Loan cần nguồn lao động trẻ làm việc trong các xí nghiệp và nhà máy cơ khí, hộ lý, lao động giúp việc nhà, và chăm sóc người già.

Theo thống kê của Bộ Lao Động Đài Loan, năm 1999, chỉ có 131 lao động Việt Nam đến Đài Loan, một năm sau đó có 7,746 lao động. Tuy nhiên, con số lao động đến từ Việt Nam tăng lên rất nhanh những năm sau đó, cụ thể năm 2020 đã có 224,713 người. Năm nay, mặc dầu gặp địa dịch Covid, nhưng vẫn còn 221,000 lao động làm việc tại đây.

II.                  KHÓ KHĂN VÀ THÁCH ĐỐ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI ĐẾN ĐÀI LOAN?

Lao động đến với hòn đảo ngọc không gì khác ngoài tham vọng thay đổi cuộc, nhưng để đạt được giấc mơ này thật chẳng dễ dàng chút nào, thậm chí có người còn vỡ mộng.

Họ phải làm việc trong hoàn cảnh được gọi là 3D và 1L, đó là difficult (gian khổ), dangerous (nguy hiểm), dirty (dơ bẩn) và low paid (thu nhập thấp). Khi đến làm việc tại Đài Loan, các lao động phải ký hợp đồng thông qua công ty môi giới, họ phải trả một số tiền rất lớn cho cả môi giới phía Việt Nam và phía Đài Loan.

Nhiều lao động do hạn chế hiểu biết về luật, về văn hóa và tập quán của nước sở tại, do môi giới không cung cấp đầy đủ thông tin, không được đào tạo trước khi sang Đài Loan cho nên đã gặp nhiều trở ngại trong công việc. Hơn nữa kỹ năng và hiểu biết của lao động không đáp ứng yêu cầu của chủ thuê, họ không quen với mật độ lao động và đòi hỏi nghiêm khắc, nên đã bị khinh dể, đánh đập, hoặc bị trả về nước.

Người lao động chịu nhiều áp lực, lớn nhất là vấn đề tiền lương. Mặc dầu chính phủ Đài Loan quy định, mỗi tháng lao động được nhận từ 17,000 đến 22,000 Đài tệ, tuy nhiên, đa số họ lại nhận thấp hơn rất nhiều so với mức lương quy định.

Nếu nhìn vào con số thu nhập, thì người lao động phải mất ít nhất trên dưới hai năm để kiếm được đủ số tiền trả món nợ ở quê nhà. Rồi muốn kiếm được thêm tiền lời họ chỉ còn vỏn vẹn một năm làm việc, với thu nhập khoảng 120-150 triệu đồng. Dĩ nhiên công việc phải ổn, không vi phạm nội quy, không đau ốm, không nghỉ phép... để không bị khẩu trừ.

 III.          III. ĐƯỜNG HƯỚNG MỤC VỤ DI DÂN CỦA GIÁO HỘI ĐÀI LOAN.

a)      Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Đài Loan (HĐGMĐL)

Vào năm 1989, HĐGMĐL công bố Thư Mục Vụ Về Vấn Đề Lao Động Nước Ngoài.” Bức thư này dựa tuyên bố của Văn Phòng Tòa Thánh nhân ngày quốc tế di dân năm1988, với ý bày tỏ: tất cả mọi người đều có quyền tự do được di chuyển đến một nơi an toàn và được quyền làm việc như bao nhiêu cá nhân khác.”

Cụ thể Thư mục vụ này dành những lời nhắn nhủ đến các thành phần như sau, xin trích một số điểm tron bức thư:

·         Dành cho các nhà lập pháp và lãnh đạo đất nước: “Họi người cần phải được quan tâm, được lắng nghe và phải được giải quyết những khúc mắc bằng pháp luật.”

·         Dành cho các chủ thuê: Họ phải biết rằng tầm quan trọng của những người nước ngoài đã đóng góp rất nhiêu về trí tuệ, năng lực, kỹ thuật cũng như là phương tiện làm việc cho các nhà máy. Thiếu sự quan tâm về nhu cầu làm việc, về quyền lợi của công nhân thì sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất.

·         Dành cho chính các lao động: “Khi anh em bị áp lực về ngôn ngữ, khác biệt văn hóatôn giáo, thì phía sau anh chị em còn có gia đình, có quê hương và có Giáo hội đang ủng hộ và bảo vệ anh chị em. Nhất là khi anh chị em rời xa gia đình, xa quê hương, để đến với đến Đài Loan tìm công việc, anh chị em cần phải kiên nhẫn và siêng năng làm việc”  

·         Dành cho các Giáo xứ: “chúng ta cũng mời gọi người lao động nước ngoài đến tham dự, đón tiếp họ như người nhà để họ cũng cảm thấy được tôn trọng và thông cảm. Qua những cuộc gặp gỡ này chúng ta cũng giới thiệu đức tin Công giáo cho họ. Nếu có ai không may bị tay nạn lao động, phải điều trị trong bệnh viện, thì cha xứ và Ban Mục Vụ Di Dân cũng nên đi thăm và động viên họ”.

 

b)     Thành lập Văn Phòng Trợ Giúp Di Dân công bố Chúa Nhật Di Dân (National Migrant Sunday)

Để tiến thêm một bước, cùng năm 1989 HĐGMĐL đã công bố thành lập Văn Phòng Quan Tâm Lao Động Nhập Cư tại Đài Bắc (Migrant Workers’ Concern Desk in Taipei).

Tiếp đó, vào năm 1997 HĐGMĐL cũng công bố thành lập ngày Chúa Nhật Dành Cho Người Di Dân.   

Ít năm sau đó, nhằm tiếp tục thúc đẩy công việc mục vụ di dân, HĐGMĐL vào năm 1998, viết lá thư mục vụ thứ hai gửi tới chính phủ và người dân Đài Loan, có tựa đề “Tinh Thần Liên Đới, Mục Vụ cho Lao Động Nước Ngoài” (Solidarity, A Pastoral Service For Foreign Workers).

Bức thư có đoạn viết:

Lao động nước ngoài đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Họ làm việc cả ngày lẫn đêm. Họ góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh của Đài Loan trên thị trường kinh tế thế giới. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương và người thân yêu của mình, họ đã phải điều chỉnh thái độ và phong cách sống của mình để phù hợp với văn hóa, phong tục và chương trình làm việc của người địa phương.

Mỗi Giáo phận cần thành lập một Ban mục vụ cho người lao động nước ngoài, các thành viên làm việc chung với nhau để tìm cách cải thiện công việc phục vụ cho họ.

c)      Các Giáo phận thành lập Ban Mục Vụ Di Dân

Đài Loan có bảy Giáo phận. Trong các Giáo phận có sự hiện diện của nhiều Hội dòng. Vì thế, khi HĐGMĐL kêu gọi mục vụ cho di dân, các Giáo phận và các Hội dòng đã hưởng ứng hết sức tích cực.

Nổi bật nhất là Giáo phận Tân Trúc, họ thành lập Trung Tâm Hy Vọng và Trung Tâm Phục Vụ Di Dân. Đức Giám mục bổ nhiệm các linh mục, nữ tu, và giáo dân là nhân viên và chuyên viên làm việc full time.

Giáo phận đưa ra một bản tuyên bố chung:

Sống theo khuôn mẫu của Chúa Giê-su, các trung tâm nỗ lực thúc đẩy sự công bằng, chính nghĩa điều kiện làm việc an toàn cho người lao động địa phương và lao động nước ngoài. Hy vọng sự công bằng và chính nghĩa này dần dần trở thành tiêu chuẩn cho Luật Lao Động của đất nước. Trung tâm sẽ cung cấp một nhóm nhân viên chuyên hỗ trợ và đồng hành với người di dân và gia đình của họ. Trung tâm cũng sẽ tạo điều kiện để họ có nơi thực hiện nhu cầu văn hóa và tín ngưỡng của mình.

Tiếp đó, Trung tâm kết hợp với nhiều giáo xứ trong Giáo phận sắp xếp nhiều thánh lễ bằng tiếng Anh, tiếng Inđônisia và tiếng Việt. Trung tâm mở các lớp tiếng Hoa và các lớp học hỏi pháp luật tất cả đều miễn phí. Trung tâm cũng nhận bào chữa miễn phí cho các lao động bị xâm hại tình dục, bị đánh đập vân vân.

d)     Văn Phòng Trợ Giúp Công Nhân, Di Dân Việt Nam

Do số lượng người di dân từ Việt Nam đến ngày càng cao, kể cả công nhân và các cô dâu lấy chồng Đài, Hội Dòng Truyền giáo thánh Columban, thành lập Văn Phòng Trợ Giúp Công Nhân và Di Dân Việt Nam vào năm 2004.

Văn phòng được thành lập bởi linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hùng, với đội ngũ hơn 10 nhân viên, trong đó 2 linh mục, 4 nhân viên người Việt Nam và nhiều người Đài Loan.

Văn phòng đã nhận được nhiều sự quan tâm và giúp đỡ của nhiều cá nhân và cộng đồng ở Đài Loan cũng như nhiều nơi trên thế giới, nhất là cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, Úc Châu, Canada và nhiều nước Châu Âu.

Văn Phòng thực hiện nhiều mục tiêu cấp thiết, bao gồm:

(1)   đấu tranh để “chấm dứt tệ nạn buôn người từ Việt Nam;

(2)   cung cấp kịp thời các phương thức cứu trợ, giúp đỡ các nạn nhân bị hành hạ;

(3)   cố vấn pháp luật và phái luật sư can thiệp bào chữa tại toà;

(4)   trao dồi kiến thức về luật pháp để giúp người lao động ý thức quyền làm chủ, đấu tranh cho nhân quyền, nhân phẩm của chính mình.”

 

 IV.            IV. ĐÁNH GIÁ VÀ TÁI KHẲNG ĐỊNH (thay lời kết)

Nỗ lực của Giáo hội đã giúp cho nhân phẩm của người lao động được tôn trọng, không chỉ dành cho người Việt mà cho người nhập cư từ nhiều quốc gia.

Tiếng nói của Giáo hội đã có tác động rất lớn đến việc thay đổi chính sách lao động của chính phủ Đài Loan. Ví dụ, ngày 21 tháng 10 năm 2016, Quốc Hội Đài Loan chính thức thông qua  điều 52 Luật Giao Dịch Việc Làm, hủy bỏ việc lao động nước ngoài phải xuất cảnh 1 ngày sau 3 năm làm việc. Môi giới lợi dụng thủ đoạn này để đuổi lao động về nước hoặc thu thêm nhiều khoản tiền khác.

Đây là một thành công lớn cho các nhà đấu tranh vì quyền lợi của công nhân. Ngày 21/10/2016 thật sự là một ngày vui, và một ngày vô cùng ý nghĩa với hàng trăm ngàn người lao động.

Còn một điều luật nữa mà cho tới hôm nay Giáo hội Công giáo cùng với các tổ chức phi chính phủ đang còn phải đấu tranh, đó là yêu cầu “hủy bỏ chế độ môi giới”.

Khi nói về chủ đề mục vị di dân và lao động Việt Nam tôi nhớ đến câu chuyện của người Israel khi họ phải lưu đầy ở Babilon, khi họ chịu cảnh tù đày và bị ngược đãi, khi họ kêu cầu lên Chúa thì Thiên Chúa đã gửi các tiên tri đến an ủi, đồng hành và khuyên bảo họ tiếp tục giữ vững niềm tin vào Ngài.

Ngày nay, khi người Việt ồ ạt qua các nước lao động, Thiên Chúa đã gửi đến cho họ nhiều vị “tiên tri” để đồng hành và đấu tranh cho quyền lợi của họ, đó là các linh mục và tu sĩ. Cụ thể ở Đài Loan, năm ngoái, Hội tu sĩ Việt Nam tại nước này đã kỷ niệm 30 năm thành lập hội. Ban đầu chỉ có khoảng 20 tu sĩ người Việt đến Hoa Kỳ, Úc và Canada để truyền giáo. Nhưng cho đến nay, ước tính có khoảng hơn 60 linh mục và khoảng 200 tu sĩ người Việt mục vụ tại đây.

Khi lao động và di dân người Việt cần sự giúp đỡ thì không chỉ có Cha Phêrô Nguyễn Văn Hùng và cha Phêrô Nguyễn Hùng Cường nhưng hết thảy chúng tôi, hằng trăm linh mục và tu sĩ người Việt đã sẵn sàng đưa tay ra cứu giúp họ.  

Thật vậy, khi Giáo hội có hướng đi rõ ràng, khi các Giáo phận và Hội dòng có văn phòng và nhân sự mục vụ cho di dân, nhất là trong đó có các linh mục và tu sĩ người Việt, thì đời sống của người lao động và di dân Việt Nam được cải thiện.

Tôi tin rằng, không chỉ có ở Đài Loan, nhưng còn nhiều nơi khác, nơi nào có người Việt, Thiên Chúa đã gửi các vị “tiên tri” đến nơi đó để đồng hành, hướng dẫn và giúp đỡ con cái của mình. Tạ ơn Thiên Chúa.

Vậy, để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta, tiếp tục phát huy sứ vụ ngôn sứ của mình, để chấm dứt hiện tượng “bắt con bỏ chợ”, mặc kệ người lao động than khóc nơi đất khách quê người.

Chúng ta hãy hăng say lên đường để đi tìm các “chiên lạc” và đưa họ về cùng một đoàn chiên: quê hương, gia đình và Giáo hội.




 

Không có nhận xét nào:

Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cursillo

  Sứ Vụ Truyền Giáo: Lời Cam Kết Của Thành Viên Phong Trào Cu rsillo   1.       Dẫn nhập Buổi chiều ngày cuối cùng khóa “khóa ba ngà...